Xây dựng không gian đô thị hóa ở Trung Quốc: Chuyển dạng trên cơ sở đô thị mới và lấy đất làm trung tâm

Hai nghiên cứu điển hình trên đã chỉ ra rõ ràng sự tăng trưởng gần đây của đất phi nông nghiệp trong và xung quanh các thành phố lớn của Trung Quốc đã bị thúc đẩy chủ yếu bởi sự mở rộng các khu vực xây dựng đô thị. Còn ở nông thôn thì sao? Trường hợp của khu vực Wuxi (cụ thể là Wuxi shiqu hay bản thân thành phố, Xishan shi và Jiangyin shi) tại phía Nam tỉnh Jiangsu đã minh họa dạng và quá trình thay đổi sử dụng đất, khác biệt cơ bản với những yếu tố được quan sát ở các thành phố lớn10. Bảng 8 liệt kê các hình ảnh được chụp đối với khu vực Wuxi vào tháng 12 năm 1987 và năm 1996, đất canh tác đã giảm khoảng 25000 hecta trong khi đất định cư đô thị tăng 7400 hecta, các khu phát triển và công nghiệp tăng 9700 hecta, định cư ở nông thôn tăng 6800 hecta và các mục đích phi nông nghiệp khác (bao gồm cả giao thông) tăng khoảng 1400 hecta. Trong khi đất nông nghiệp trên tổng đất giảm từ 88% xuống còn 77%, đất phi nông nghiệp tăng từ 9 lên 20%. Với những danh mục sử dụng đất như ở trên, sự tăng lớn nhất cả về số lượng tuyệt đối lẫn tỷ lệ là ở các khu phát triển và công nghiệp chứ không phải là sự phát triển của các khu xây dựng đô thị (Bảng 8). Dạng này có nghĩa là, ngược với dạng mở rộng đô thị được chỉ ra trong 2 trường hợp trên, tăng trưởng đất phi nông nghiệp ở khu Wuxi đã được thúc đẩy chủ yếu bởi quá trình công nghiệp hóa nông thôn. Dạng này có thể được minh họa bởi một phân tích kỹ hơn ở một quy mô chuẩn hơn. Khu vực Wuxi có 2 thành phố được chỉ định: Wuxi và Jiangyin. Wuxi là một thành phố “quy mô trung bình” vào những năm 1970 và đã phat triển thành một thành phố “lớn” vào đầu những năm 1980. Jiangyin, mặt khác, chỉ đạt được vị thế thành phố vào năm 1987, khi nó có dân cư “đô thị” vào khoảng 134000, khiến nó trở thành một trong những thành phố “nhỏ” của Trung Quốc. Tới năm 1996, Jiangyin đã phát triển thành một thành phố “trung bình” với dân số hơn 320 000 . Phân tích của chúng tôi về các bức ảnh vệ tinh chỉ ra rằng, tổng diện tích phi nông nghiệp ở Wuxi tăng lên từ 1987 đến 1996 là 36%, trong đó diện tích tăng trong shiqu là 22% và khu vực trong và gần Thành phố Jiangyin là 14%. Diện tích tăng lên tại một số khu công nghiệp rải rác chiếm 49% và tăng đối với định cư đô thị tăng 37%11. Nói cách khác, công nghiệp hóa nông thôn chiếm gần ½ lượng tăng đối với sử dụng đất phi nông nghiệp trong khu vực này. Bên cạnh Wuxi và Jiangyin, khu vực cũng bao gồm khoảng 60 khu phố được chỉ định và 1200 làng hành chính. Phân tích của chúng tôi đối với các hình ảnh vệ tinh đã chỉ ra rằng gần 2/3 tăng diện tích phi nông nghiệp ở khu vực Wuxi từ năm 1987 đến 1996 là do tăng trong và xung quanh những khu phố được chỉ định (53%) và các làng trong khu vực. Sử dụng đaát cho các mục đích phi nông nghiệp tăng đã xuất hiện theo những phương thức khác nhau trong khu vực Wuxi vì 2 lý do, cả 2 lý do này đều liên quan đến công nghiệp hóa nông thôn

pdf30 trang | Chia sẻ: nhung.12 | Lượt xem: 1303 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xây dựng không gian đô thị hóa ở Trung Quốc: Chuyển dạng trên cơ sở đô thị mới và lấy đất làm trung tâm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nghiệp và diện tích mặt nước, trước đây là 7400 hecta và sau đó giảm xuống 1800 hecta (còn 5600 ha). Từ năm 1987 đến năm 2000 , đất nông nghiệp có tỷ lệ trên tổng đất ở Hefei shiqu giảm từ 73% xuống còn 59%m và tỷ lệ diện tích mặt nước từ 10% xuống còn 7% (bảng 7). Bảng 7: Các dạng sử dụng đất ở shiqu của Hefei, 1987 và 2000 (sử dụng đất dưới dạng phần trăm trên tổng đất) 1987 2000 Phần trăm thay đổi 1987- 2000 Tổng diện tích (Hecta) 52 541 52 541 Phần trăm tổng diện tích Đất nông nghiệp 73.4 59.2 - 14.2 Đất phi nông nghiệp 16.6 34.2 17.6 Diện tích xây dựng đô thị 8.6 17.6 9.0 Định cư nông thôn 5.5 10.6 5.1 Khu phát triển/công nghiệp 0.1 2.9 2.8 Sử dụng phi nông nghiệp khác 2.4 3.1 0.7 Diện tích mặt nước 10.1 6.6 - 3.5 Tổng 100.0 100.0 Nguồn: Tính toán từ các hình ảnh vệ tinh Sự mở rộng của các khu xây dựng đô thị và các khu phát triển và công nghiệp độc lập ở shiqu của Hefei , hầu hết bắt đầu từ giữa những năm 1990 chiếm 2/3 diện tích đất bị chiếm dụng tăng them cho những mục tiêu phi nông nghiệp từ năm 1987 tới năm 2000. Vào giữa những năm 1990, Hefei khởi động hai dự án lớn ở khu vực Đông Bắc của shiqu, một khu phát triển có tính toàn diện và diện tích lớn và việc mở rộng rất nhiều sân bay của thành phố. Cùng thời gian, việc xây dựng hai khu phát triển nhằm thu hút đầu từ đối với các ngành công nghiệp công nghệ cao đã được hoàn thành tại khu vực Tây Nam của shiqu. Tới năm 2000, 4 dự án này đã chiếm hơn 1700 hecta đất thành phố, chiếm một tỷ lệ phần trăm lớn trong số đất được chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất canh tác (Chính quyền Thành phố Hefei, 1999, trang 15). Sự hoàn thành đường vành đai thứ hai và sự cải thiện những con đường hiện nay cũng chiếm nhiều đất. Quan trọng hơn, những con đường mới làm giảm ách tắc và tạo thuận lợi hơn cho việc tiếp cận các khu ngoại ô thành phố và định cư đô thị đã nhanh chóng được mở rộng từ trung tâm thành phố nhằm lấp đầy hầu hết đất nối liền trung tâm và các khu phát triển mới. Trường hợp của Hefei do đó đã chứng minh mọt dạng tăng đất phi nông nghiệp được thúc đẩy chủ yếu vởi sự mở rộng của các khu vực xây dựng đô thị, một dạng đặc thù của thành phố Quảng Châu, mặc dù quy mô là khác biệt do những bối cảnh địa lý và mức độ phát triển kinh tế. Bảng 8: Các dạng sử dụng đất ở khu vực Wuxi, 1987 và 1996 (sử dụng đất dưới dạng phần trăm tổng đất) 1987 1996 Phần trăm thay đổi 1987 đến 1996 Tổng diện tích (Hecta) 228 222 228 222 Phần trăm tổng diện tích 88.0 76.8 - 11.2 Đất nông nghiệp 83.1 72.0 - 11.1 Đất phi nông nghiệp 9.1 20.2 11.1 Diện tích xây dựng đô thị 3.8 7.0 3.2 Định cư nông thôn 4.2 7.2 3.0 Khu phát triển/công nghiệp 0.6 4.9 4.3 Sử dụng phi nông nghiệp khác 0.5 1.2 0.7 Diện tích mặt nước 2.9 3.0 0.1 Tổng 100.0 100.0 Nguồn: Tính toán từ các hình ảnh vệ tinh Hai nghiên cứu điển hình trên đã chỉ ra rõ ràng sự tăng trưởng gần đây của đất phi nông nghiệp trong và xung quanh các thành phố lớn của Trung Quốc đã bị thúc đẩy chủ yếu bởi sự mở rộng các khu vực xây dựng đô thị. Còn ở nông thôn thì sao? Trường hợp của khu vực Wuxi (cụ thể là Wuxi shiqu hay bản thân thành phố, Xishan shi và Jiangyin shi) tại phía Nam tỉnh Jiangsu đã minh họa dạng và quá trình thay đổi sử dụng đất, khác biệt cơ bản với những yếu tố được quan sát ở các thành phố lớn10. Bảng 8 liệt kê các hình ảnh được chụp đối với khu vực Wuxi vào tháng 12 năm 1987 và năm 1996, đất canh tác đã giảm khoảng 25000 hecta trong khi đất định cư đô thị tăng 7400 hecta, các khu phát triển và công nghiệp tăng 9700 hecta, định cư ở nông thôn tăng 6800 hecta và các mục đích phi nông nghiệp khác (bao gồm cả giao thông) tăng khoảng 1400 hecta. Trong khi đất nông nghiệp trên tổng đất giảm từ 88% xuống còn 77%, đất phi nông nghiệp tăng từ 9 lên 20%. Với những danh mục sử dụng đất như ở trên, sự tăng lớn nhất cả về số lượng tuyệt đối lẫn tỷ lệ là ở các khu phát triển và công nghiệp chứ không phải là sự phát triển của các khu xây dựng đô thị (Bảng 8). Dạng này có nghĩa là, ngược với dạng mở rộng đô thị được chỉ ra trong 2 trường hợp trên, tăng trưởng đất phi nông nghiệp ở khu Wuxi đã được thúc đẩy chủ yếu bởi quá trình công nghiệp hóa nông thôn. Dạng này có thể được minh họa bởi một phân tích kỹ hơn ở một quy mô chuẩn hơn. Khu vực Wuxi có 2 thành phố được chỉ định: Wuxi và Jiangyin. Wuxi là một thành phố “quy mô trung bình” vào những năm 1970 và đã phat triển thành một thành phố “lớn” vào đầu những năm 1980. Jiangyin, mặt khác, chỉ đạt được vị thế thành phố vào năm 1987, khi nó có dân cư “đô thị” vào khoảng 134000, khiến nó trở thành một trong những thành phố “nhỏ” của Trung Quốc. Tới năm 1996, Jiangyin đã phát triển thành một thành phố “trung bình” với dân số hơn 320 000 . Phân tích của chúng tôi về các bức ảnh vệ tinh chỉ ra rằng, tổng diện tích phi nông nghiệp ở Wuxi tăng lên từ 1987 đến 1996 là 36%, trong đó diện tích tăng trong shiqu là 22% và khu vực trong và gần Thành phố Jiangyin là 14%. Diện tích tăng lên tại một số khu công nghiệp rải rác chiếm 49% và tăng đối với định cư đô thị tăng 37%11. Nói cách khác, công nghiệp hóa nông thôn chiếm gần ½ lượng tăng đối với sử dụng đất phi nông nghiệp trong khu vực này. Bên cạnh Wuxi và Jiangyin, khu vực cũng bao gồm khoảng 60 khu phố được chỉ định và 1200 làng hành chính. Phân tích của chúng tôi đối với các hình ảnh vệ tinh đã chỉ ra rằng gần 2/3 tăng diện tích phi nông nghiệp ở khu vực Wuxi từ năm 1987 đến 1996 là do tăng trong và xung quanh những khu phố được chỉ định (53%) và các làng trong khu vực. Sử dụng đaát cho các mục đích phi nông nghiệp tăng đã xuất hiện theo những phương thức khác nhau trong khu vực Wuxi vì 2 lý do, cả 2 lý do này đều liên quan đến công nghiệp hóa nông thôn. Đầu tiên, khu vực Wuxi nằm ở trung tâm của miền Nam của Jiangsu nơi công nghiệp hóa nông thôn dựa trên các doanh nghiệp sở hữu tập thể làng- phố bắt đầu từ sớm và phát triển nhanh chóng vào những năm 1980 (Ho, 1994). Trong năm 1987, gần 2500 doanh nghiệp ở phố đã hoạt động trong khu vực và hấu hết trong số đó nằm trong hoặc gần hơn 60 khu phổ nhỏ trong khu vực. Nhằm hỗ trợ các ngành công nghiệp địa phương và lôi kéo đầu tư từ bên ngoài, rất nhiều khu phố và thậm chí là khu làng trong khu vực đã thiết lập các khu vực phát triển và bất động sản công nghiệp. Dòng chảy đầu tư vào và tăng trưởng của doanh nghiệp nông thôn đã tạo ra việc làm và thu nhập cho dân cư địa phương, các nhân tố sau đó tạo ra nhu cầu đối với các dịch vụ được tạo ra trong khu vực (như thương mại, dịch vụ cá nhân và dịch vụ chính phủ). Nói cách khác, do các ngành công nghiệp ở khu vực Wuxi là rải rác, tăng trong lĩnh vực đất phi nông nghiệp được tạo ra bởi công nghiệp hóa cũng có tính rải rác. Lý do thứ hai cho sự tăng rải rác diện tích đất phi nông nghiệp rõ ràng là sự mở rộng của các khu định cư nông thôn. Đất được sử dụng cho định cư nông thôn chủ yếu nhằm mục đích xây dựng nhà cửa và cung cấp các khu cho các hoạt động phi nông nghiệp. Trong suốt những năm 1980, khu vực Wuxi là mọt trong những khu vực đầu tiên trong nước trải qua sự bùng nổ nhà ở, một phần bắt nguồn từ tăng trưởng dân số liên tục nhưng chủ yếu là do tăng nhanh chóng thu nhập hộ gia đình băt nguồn từ sự phát triển đầy khởi sắc của ngành công nghiệp nông thôn và bởi các chính sách nới lỏng hơn đối với xây dựng nhà ở cá nhân12. Do các doanh nghiệp công nghiệp nông thôn được sở hữu của các thể nhân dưới cấp độ phố được đặt tại đất của làng, sự phát triển của các ngành công nghiệp làng là một lý do nữa giải thích tại sao định cư ở nông thông trong khu vực này sử dụng nhiều đất hơn trong suốt những năm 1980 và 1990. Trong năm 1996, khu vực Wuxi đã có hơn 18000 doanh nghiệp công nghiệp được sở hữu bởi các làng, các nhóm dưới làng hay các thành viên cá nhân của làng; cùng nhau, họ tạo ra khoảng 1/3 tổng sảng lượng công nghiệp của vùng13. Bên cạnh những doanh nghiệp công nghiệp này, còn có rất nhiều cơ sở dịch vụ và thương mại thuộc sở hữu nông thôn sử dụng đất langf để thực hiện kinh doanh. Tác động từ các hiệu ứng kết hợp của dân số lớn hơn, bùng nổ nhà ở và nền kinh tế làng mạnh mẽ lên sử dụng đất đã dấn tỡi việc tằng đất được sở hữu cho mục tiêu định cư nông thôn lên khoảng 6800 hecta từ năm 1987 đến năm 1996, con số không nhỏ so với mức tăng đối với đất đượ sử dụng cho mục tiêu định cư đô thị. Định cư nông thôn đã phát triển rộng xuyên suốt khu vự nông thôn. Kết quả làm sự mở rộng của đất phi nông nghiệp cũng trở nên có tính rải rác trên diện rộng. Kết luận Những cải cách kinh tế theo chiều sâu và sự tham gia ngày càng tăng vào nền kinh tế thế giới vào những năm gần đây đã đặt Trung Quốc một cách vững chãi trên con đường công nghiệp hóa nhanh chóng và tăng tốc đô thị hóa. Trong suốt những năm 1980 và đầu những năm 1990, không gian trong đô thị hóa đã được lấp đầy chủ yếu với sự gia tăng có tính hiện tượng và nội tại của các hoạt động phi nông nghiệp tại nông thôn và sự hồi sinh của các phố nhỏ ở mức độ cơ bản nhất. Tuy nhiên, kể từ giữa những năm 1990, không gian đô thị Trung Quốc đã được thay đổi thông qua một quá trinh đô thị hóa trên cơ sở thành phố và lấy đất làm trung tâm trong đó các thành phố lớn đã thành công trong việc tái khẳng định vị trí dẫn đầu của mình trong nền kinh tế ngày càng đô thị hóa, quốc tế hóa và cạnh tranh cao. Trong khi tầm quan trọng của đất đã được nhìn nhận trong những nghiên cứu gần đây về chính sách đo thị mới của Trung Quốc, rất nhiều vấn đề nghiên cứu cơ bản vẫn chưa được hiểu do sự thiếu hụt số có hệ thống và bản chất phức tạp của đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu này phân tích sự tăng trưởng, và những thay đổi về về mặt cấu trúc và địa điểm của đất phi nông nghiệp của trung Quốc với sự tham chiếu đặc biệt đến sự mở rộng có tính bùng nổ gần đây của định cư đô thị trên các quy mô đa dạng của đất nước, đặc biệt là ở duyên hải miền Đông. Một phân tích hệ thống về 3 bộ số liệu bổ sung lẫn nhau chỉ ra dạng thức thú vị của việc tăng diện tích đất phi nông nghiệp. Trung Quốc có gần 30 triệu hecta, hay 3%, đất dành cho các mục đích phi nông nghiệp vào năm 1996. Hầu hết (hơn 2/3) đất phi nông nghiệp đã bị chiếm dụng cho việc định cư nông thôn, các con đường nông thôn và cá hoạt động công nghiệp ở nông thôn. Trên khía cạnh địa lý, đất phi nông nghiệp tập trung ở duyên hải miền Đông, đặc biệt ở Đồng bằng Bắc Trung Quốc và vùng hạ lưu sông Yangtze (Dương tử), nơi mật độ dân số cao, mức độ đô thị hóa cao và ảnh hưởng của toàn cầu hóa được cảm nhận một cách rõ rệt. Tốc độ tăng nhanh chóng diện tích đất phi nông nghiệp kể từ những năm 1889 đã được thúc đẩy chủ yếu bởi sự tăng trưởng của các khu định cư nông thôn và đô thị cũng như phát triển công nghiệp. Mặc dù có một lượng đất được khai hoang đáng kể ở một số khu vực biên giới ở Tây Trung Quốc, diện tích đất phi nông nghiệp tăng lên chủ yếu là ở khu vực duyên hải miền Đông với sự mất đi của đất canh tác màu mỡ. Rõ ràng là có cạnh tranh đất mạnh mẽ giữa các ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp ở duyên hải Trung Quốc. Có nhu cầu mạnh mẽ đối cho việc đưa ra những chính sách sang tạo nhằm phối hợp sử dụng đất và thúc đẩy tăng trưởng mạnh trong một nền kinh tế công nghiệp hóa, đô thị hóa và toàn cầu hóa nhanh chóng. Một đánh giá so sánh của các hình ảnh vệ tinh được thực hiện đối với 3 khu vực thành phố trong giai đoạn giữa những năm 1980 và năm 2000 đã chỉ ra 2 động lực dễ thấy của đô thị hóa cùng vận hành song song. Ở phía cáp độ trên của đô thị, các thành phố lớn và siêu lớn kể từ những năm 1990 đã áp dụng cái được gọi là chiến lược “lấy đất làm trung tâm” trong quá trình “tạo ra không gian” và “xúc tiến không gian” nhằm đáp ứng lại cạnh tranh quốc gia và toàn cầu ngày càng mạnh mẽ. Nhằm tái khẳng định vị thế dẫn đầu trong nền kinh tế khu vực và quốc gia, các thành phố lớn và siêu lơn gần đây đã mở rộng và nân gcâu môi trường xây dựng đô thị, từ đó họ có thể khác biệt hóa bản thân với rất nhiều thành phốnhỏ và các khu phố cũng như những nền kinh tế nông thôn đang trải qua quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng. Như trong trường hợp Quảng Châu và Hefei, sự mở rộng của các khu vực xây dựng đô thị, được đặc trưng bởi cả sự mở rộng ra ngoài hệ thống đường bao và sự thành lập các khu phát triển công nghệ và kinh tế tại các khu vực ngoại ô thành phố, đã trở thành những nhân tố quan trọng nhất giải thích cho sự tăng lên của diện tích đất phi nông nghiệp tại hai khu vực thành phố này. Cùng lúc, quá trình công nghiêp hóa và đô thị hóa nông thôn đang diễn ra ở nông thôn đã dẫn tới sự tăng nhanh đất phi nông nghiệp với việc đánh đổi của đất canh tác với sự đánh đổi bằng đất phi nông nghiệp một cách rải rác. Cũng như cách thức sử dụng đất thay đổi ở khu vực Wuxi, gần một nửa trong diện tích đất tăng lên của đất phi nông nghiệp đã đóng góp cho sự tăng lên của các khu công nghiệp rải rác và khoảng 2/3 lượng tăng lên được gây ra bởi sự tăng lên của rất nhiều khu phố nhỏ và định cư nông thôn, bao gồm cuộc bùng nổ nhà ở ở nông thôn sau khi dân số nông thôn đã giàu lên ở nông thôn. Đặt cạnh nhau, một đô thị lấy thành phố làm trung tâm ở nơi cao nhất và công nghiệp hóa có cơ sở là nông thôn ở điểm thấp nhất dường như là 2 quá trình diễn ra song song của đô thị hóa mà đã đóng góp vào sự mở rộng gần đây của sử dụng đất phi nông nghiệp trong bối cảnh đo thị hóa nhanh chóng và nền kinh tế khu vực quốc tế hóa. Ngoài 2 quá trình đô thị hóa cùng lúc được đưa ra trong phân tích các hình ảnh vê tinh của 3 trường hợp được lựa chọn, những nhân tố tổ chức đã tác động một cách cơ bản tới sự tăng trưởng của đất phi nông nghiệp của Trung Quốc với sự đánh đổi lấy đất nông nghiệp (bao gồm đất canh tác). Trong những nhân tố đóng góp vào sự dịch chuyển nhanh chóng (ở một số khu vực là không có kiểm soát) của đất sang mục đích phi nông nghiệp là quyết định của nhà nước trong việc phi tập trung hóa sức mạnh hoạch định chính sách kinh tế và mở cửa thị trường đất cho các nhà đầu tư nước ngoài và tư nhân trong khi khung tổ chức cần thiết (ví dụ: luật, các ban ngành hành pháp và thực thi pháp luật) vẫn được duy trì ở mức tương đối kém phát triển, và trong nhiều trường hợp, dễ dàng bị thao túng và thao tác (Ho và Lin, 2003; Lin và Ho, 2005). Nhằm thỏa mãn những lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài trong việc minh bạch các quyền sở hữu đất và cùng lúc duy trì tính nguyên vẹn của chủ nghĩa xã hội đối với sở hữu chung/công về đất đai, chính phủ hậu cải cácnh kể từ giữa những năm 1980 đã tách quyền sử dụng đất khỏi quyền sở hữu đất và đã cho phép đối với quyền được chuyển giao hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Trong khi tài sản để lại của chủ nghĩa xã hội về việc phân bổ đất theo cơ chế hành chính vẫn được duy trì, một hướng giao dịch đất mới đã được đưa ra. Mỉa mai thay, thị trường đất theo hai hướng này đã tạo ra một sự bất đối xứng lớn và có khả năng sinh lợi cho việc buôn bán. Trong thị trường đất theo 2 hướng hiện nay, tái phát triển đô thị trong nội thành tốn kém hơn nhiều so với mở rộng ra phía ngoài đô thị, vào đất trồng trọt tại các khu vực ngoại thành. Các báo cáo đã chỉ ra rằng chi phí để có đất và phá hủy traong nội thành Bắc Kinh trong vòng đường bao thứ hai là 20 triệu nhân dân tệ trên 1 mu, cao gấp 120 so với chi phí thu hồi đất trồng trọt ở các khu rìa đô thị Bắc Kinh (100000- 150000 NDT trên 1 mu đất trồng lúa và 200000- 300000 NDT trên một mu đối với đất trồng rau (FPIT, 1997, trang 4- 5; Zhou và Ma, 2000, trang 219). Trong thành phố Xi’an, chi phí mua đất và phá hủy là 900000 NDT trên 1 mu trong nội thành trong vòng đường bao thứ hai, nhưng chỉ 300000 NDT trên 1 mu ở rìa thành phố bên ngoài đường bao thứ hai của thành phố. Sự bất tương xứng có khả năng sinh lợi này giữa đất đô thị thuộc sở hữu nhà nước và đát nông thôn được sở hữu tập thể là một trong những nhân tố cơ bản giải thích sự xâm lấn liên tục của đất đô thị vào đất nông thôn. Mặc xu xu hướng xuyển đổi đất mang lại lợi ích cho ngành phi nông nghiệp không thể bị đảo ngược, có những cách giúp cho đất phi nông nghiệp quý giá của Trung Quốc có thể được sử dụng hợp lý hơn và hiệu quả hơn. Hiện nay, rất nhiều bằng chứng chỉ ra rằng đất phi nông nghiệp chưa được sử dụng một cách hiệu quả. Ví dụ, rất nhiều “khu vực phát triển công nghệ và kinh tế” được chỉ định hợp pháp hoặc bất hợp pháp bởi các cấp chính quyền khác nhau vẫn chưa được sử dụng hết. Năm 1997, sau một cuộc điều tra xuyên suốt, nhà chức trách Trugn Quốc thông báo rằng tổng số 4210 khu phát triển các loại đã được hình thành, rất nhiều trong số đó nằm ở các tỉnh duyên hải, và cùng nhau, các khu này có một “khu vực được quy hoạch” (guihua mianji) là 12357 km2, chỉ ít hơn một chút so với đất xâyd ựng tại 467 thành phố được chỉ định vào năm 199014. Trong số 4210 khu phát triển, chỉ có 1128 khu có được sự cho phép của chính quyền cấp tỉnh hoặc trung ương. Các khu canh tác chiếm 55% khu được rào quanh. Trong số đất được phân ranh giới cho những khu phát triển này, chỉ có 2322 km2, hay 20% được sử dụng thực sự. Nói cách khác, 80% đất được đánh dấu sở hữu cho các khu phát triển trong tình trạng không được sử dụng (Y. Li, 2000, trang 247). Vấn đề này đã tồn tại không chỉ ở các khu vực gần các thành phố mà cả ở nông thôn. Ví dụ, người ta đã thông báo rằng đất không sử dụng gần các ngôi làng ở Hebei thường lớn hơn diện tích của các ngôi làng (Đại sứ quán Mỹ ở Bắc Kinh, 1997). Một vấn đề khác là đất phi nông nghiệp chưa được sử dụng một cách hợp lý. Cuối những năm 1990, các doanh nghiệp công nghiệp vẫn chiếm khoảng 26% đất xây dựng đô thị ở Trung Quốc. Ngược lại, các doanh nghiệp công nghiệp chỉ chiếm hơn 7% diện tích đất xây dựng đô thị ở Mỹ (Y. Li, 2000, trang 596). Sự bùng nổ về số lượng các thành phố nhỏ và khu phố lân cận với nhau đã tạo ra sự nhân đôi các nhà máy và cơ sở hạ tầng công nghiệp. Tại nông thôn, “các làng rỗng” (Kungxin cun) – nghĩa là các làng có đất không được tận dụng- đã trở nên ngày càng phổ biến. Khi thu nhập của nông dân tăng lên, họ xây dựng nhà mới lớn hơn, thường ở phía ngoài các ngôi làng và lấn vào đất nông nghiệp gần đó, hơn là cải tạo ngôi nhà hiện tại của họ. Khi các nông dân chuyển tới các ngôi nhà mới ở bên ngoài, ngôi làng trở nên “rỗng” d những bộ phận cũ của lang trở nên ngày càng vắng người. Hiện tượng này không bị giới hạn ở các làng do cũng có thể được quan sát tại rất nhiều khu phố ở nông thôn hay các thành phố nhỏ. Với số lwọng định cư nông thôn lớn, mức độ tận dụng đất phi nông ngược thấp không bao giờ nên bị đánh giá thấp15. Những vấn đề tận dụng đất phi nông nghiệp thấp ở đo thị và nông thôn Trung Quốc chỉ tới những khu vực trong đó các chính sách quản lý đất nên được xây dựng nhằm nâng cao hiệu suất và tính hợp lý của sử dụng đất trong quốc gia đông dân và đô thị hóa nhanh chóng này. Nhằm giải quyết vấn đề bỏ hoang đất tại các khu phát triển, chính quyền trung ương đang tính tiền “phí đất không sử dụng” nếu việc xây dựng không được tiến hành trong 1 năm kể từ khi đất được chỉ định cho mục tiêu phát triển, và sẽ thu hồi không đền bù đối với quyền sử dụng đất nếu đất được chỉ định vẫn bỏ không trong vòng 2 năm liên tiếp (Trung Quốc, 1998, Điều 37). Tuy nhiên, người ta sẽ còn phải xem liệu những quy định mới của trung ương có được thực thi hiệu quả bởi các chính quyền địa phương, thường đóng vai trò vừa là người sử dụng đất vừa là người thực thi các quy định, hay không. Nhằm tăng cường độ sử dụng đất ở nông thônm chính quyền có thể cần đưa ra một chiến lược không gian mới nhằm sắp xếp định cư nông thôn theo một cách tập trung chứ không phải là rải rác. Ví dụ, Dongguan, một khu vực thành phố ở khu vực Đống bằng sông Pearl, gần đây đã áp dụng một chiến lược tái quy mô nhằm nhóm các ngành công nghiệp thành các khu công nghiệp, tập hợp các bất động sản cá nhân thành các khu phố đô thị và gắn liền các khu phố rải rác thành các khu vực đô thị hóa (Lin, 2006; Smart và Lin, 2007)( Một phương phapts tiếp cận tương tự cũng đã được áp dụng ở Zhanjiagang ở phía Nam Jiangsu (Ho và Lin, 2004a, trang 778). Để những động lực địa phương này có thể có hiệu quả, càn có nhiều hơn nỗ lực từ các nhà chức trách ở cấp tỉnh và trung ương trong việc đưa ra những chính sách và phối hợp liên ngành. Cuối cùng, chính phủ có thể đưa ra và thực hiện các chính sách sử dụng đất hiệu quả như thế nào nhằm quản lý và điều chỉnh chuyển sử dụng đất và các cơ quan này cho phép thị trường đất đai một cách nhanh chóng như thế nào trong việc phát triển sẽ quyết định việc liệu chuyển mục đích sử dụng đất sang phi nông nghiệp có tiếp tục theo một cách hiệu quả về mặt kinh tế, công vằng về xã hội và bền vững về mặt môi trường hay không. Chú ý 1. tháng 3 năm 1997, các lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc đã được xem các bức ảnh vệ tinh được chụp vào những năm 1987, 1991 và 1995, trong đó chỉ ra tốc độ chuyển đổi đất từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp nhanh gấp 2,5 lầ so với người ta nghĩ trước đó. Sau khi xem những bức ảnh, tổng thư ký Đảng cộng sản Trung Quốc Jiang Zhemin đã nói: “buting buzhidao, yiting xiayitiao” (bạn cso thể không biết nếu bạn không được người khác nói, và bị sốc nếu họ nói). (Xem “China’s farmland loss rings alarm- satellite photographs reveal a sẻious problem”, china.gov/english/sandt/landloss.htm.). Vào năm 1998, lệnh hoãn chuyển đổi đất nông nghiệp đã được kéo dài cho tới khi chỉnh sửa Luật Quản lý Đất đai (bao gồm những quy tắc nghiêm ngặt về chuyển đổi đất nông nghiệp) có hiệu lực vào năm 1999. Để thảo luận cụ thể hơn, xem Ho và lin (2003) và Lin và Ho (2005) 2. Việc phân loại dân số nông nghiệp và phi nông nghiệp là một di sản của hệ thống đăng ký hộ gia đình của Trung Quốc (hộ khẩu). Trong giai đoạn kế hoạch hóa tập trung, một cá nhân được cấp gạp bởi nhà nước được coi là hộ phi nông nghiệp; tất cả các hộ còn lại được coi là nông nghiệp. Kể từ cải cách kinh tế, nhà nước không còn cấp gạo nữa và người dân phải mua gạo trên thị trường, nhưng sự vẫn có sự khác biệt giữa dân cư nông nghiệp và phi nông nghiệp do nó vẫn tác động đến các điều khoản về thị trường lao động và phúc lợi xã hội (như việc làm, đi học, chăm sóc y tế, lương hưu,). Các cơ quan thống kê Trung QUốc định nghĩa khu vực xây dựng đô thị (chengshi jianchengqu) là “khu vực rộng và liên tục được bao phủ bởi công trình đô thị và cơ sở đô thị, bao gồm cả mặt nước như sông và hồ”. (CSSB, 2000, trang 488 và Lin, 2002), Một thành phố điển hình của Trung Quốc thường bao gồm trong biên giới của nó một “thành phố đúng kiểu” (city proper) và rất nhiều quận và khu phố- hay, trong trường hợp các thành phố lớn, rất nhiều các hạt ngoại thành phụ. Ở một số thành phố lớn, kể cả thành phố chính thức cũng đôi khi bao gồm một số khu phố mà chủ yếu là nông thôn. Khu vực xây dựng đô thị có thể được cho là thay thế phù hợp cho một khu vược được đô thị hóa thực sự nhằm giúp tránh sự bóp méo của việc phân loại theo hành chính. 3. Định cư đô thị ở Trung Quốc bao gồ 2 nhân tố chính- đó là các thành phố và các khu phố được chỉ định chính thức (Jianzhi zhen). Chỉ chính quyền trung ương (Hội đồng Nhà nước) có thẩm quyền chỉ định một khu định cư là một thành phố hay một phố được chỉ định. Nhìn chung, một thành phố phải có dân số lớn hơn 100000. Thêm vào đó, tư bản cấp tỉnh (provincial capitals), cơ sở công nghiệp, các khu trung tâm buôn bán chủ yếu và các khu phố quan trọng chị sự quản lý trực tiếp của chính quyền cấp tỉnh hoặc quận (diqu) cũng có thể được chỉ định là thành phố kể cả khi dân số ở đây ít hơn. Các khu phố được chỉ định bao gồm các hạt không phải là các thành phhố; các khu phố có dân số trên 20000, trong đó ít nhất 10% là ph nông nghiệp; và các khu phố có dân số ít hơn 20000 nhưng có ít nhất 2000 là phi nông nghiệp. Tuy nhiên, chính phủ sử dụng ít tiêu chí hạn chế trọng việc phân loại các khu định cư là các thành phố được chỉ định tại các khu vực thiểu số và các khu vực có dân cư phân tán (Ma và Cui, 1987, trang 377- 378). Kể từ năm 1999, một khu định cư đô thị phải có mật độ dân số tối thiểu là 1500 người/km2. 4. Đông Trung Quốc bao gồm các khu thành phố trung tâm lớn như Bắc Kinh, Thiên Tân, và Thượng Hải, và các tỉnh như Liêu Ninh, Hà Bắc (Hebei), Sơn Đông, Jiangsu, Zhejiang, Fujian, Quảng Đông, Hải Nam, và Quảng Tây. Trung Trung Quốc bao gồm khu vực tự trị Mông Cổ, và các tỉnh Heilongjiang, Jilin, Shanxi, Henan, Anhui, Jiangxi, Hubei, và Hunan. Tây Trung Quốc bao gồm các khu thành phố đặc biệt như Chongquing, các tỉnh Shichoan, Guizhou, Yunnan, Qinghai, Shaanxi và Gansu, và các khu tự trị Tibet và Xinjiang. 5. Năm 1984 được lựa chọn vì nó là năm đầu tiên các số liệu thống kê đô thị của Trung Quốc được đưa ra và năm 1996 được lựa chọn nhằm thống nhất với cuộc điều tra đất đai toàn quốc. 6. Khi bắt đầu cải cách kinh tế vào năm 1978, Trung Quốc thông báo chính thức là có dân cư đô thị là 170 triệu người chiếm chỉ khoảng 18% tổng dân số. Tới năm 2000, dân số đô thị Trung Quốc đã tăng lên 456 triệu người và chiếm 36% tổng dân số. Con số tuyệt đối của dân cư đô thị không thể được so sách một cach toàn diện theo thời gian do Trung Quốc đã thay đổi định nghĩa về đô thị vào năm 1982, 1990 và 2000. Tuy vậy, những thay đổi về định nghĩa không thay đổi một cách cơ bản mức độ đô thị hóa. Để biết chi tết hơn về những thay đổi chính thức của Trung Quốc về định nghĩa về đô thị, xem Ma và Cui (1987), Zhang và Zhao (1998), Zhou và Ma (2003) và Chan và Hu (2003). 7. Đất không sử dụng của Trung Quốc chủ yếu là đất hoang hóa bao gồm đá và sỏi lộ thiên (42%), cát (20%), đầm lầy và bãi cỏ không sử dụng (20%). Chất lượng đất nghèo và chi phí cải tạo là rất cao. Hầu hết (80%) đất không sử dụng nằm ở Tây Trung Quốc nơi mội trường tự nhiên khắc nghiệt (Y. Ly, 2000, trang 295; Lin và Ho, 2003, trang 91) 8. Việc chỉ định các thành phố ở Trung uốc đã đwọc giải quyết bởi Bộ Nội vụ của Hội đông Nhà nước. Năm 1984, Bộ này đã giảm các tiêu chí đối với việc chỉ định thành phố. Việc giảm tiêu chí này đã được thông qua bởi Hội đồng Nhà nước và được thông báo trong Thông tư 1986 với tên gọi “Về việc điều chỉnh các tiêu chuật chỉ định thành phố và các điềukiện để thành phố quản lý các hạt”. Để biết thêm chi tiết, xem Hsu (1994, trang 516) và Ma (2005). 9. Các hình ảnh vệ tinh chỉ ra rằng diện tích hồ cá đã tăng từ 3500 hecta năm 1988 lên 22000 hecta năm 2000, và hầu hết diện tích tăng được lấy từ đất nông nghiệp. 10. Năm 1996, Wuxi shiqu, với tổng diện tích đất là 325 km2, bao gồm ba “quận thành phố” và 13 khu phố (zhen/xiang) được tổ chức thành 3 “quận ngoại thành”. Jiangyin shi (một thành phố cấp quận) với diện tích đất 926 km2, có 28 khu phố chịu sự quản lí và Xishan Shi (cũng là một quận), với tổng diện tích 957 km2, quản lý 33 khu phố. 11. Phân tích của chúng tôi đối vơic các bản in ảnh vệ tinh chỉ ra rằng từ tháng 12 năm 1987 tới tháng 12 năm 1996, đất phi nông nghiệp ở thành phố Wuxi và khu vực xung quanh thành phố Jiangyin đã tănglên gần 9100 hecta, trong đó tăng đất xây dựng đô thị chiếm khoảng 3400 hecta và tăng đất của các khu phát triển và công nghiệp độc lập chiếm 4500 hecta. 12. Tăng trưởng dân số tự nhiên là tương đối thấp từ nhăng năm 1980 tới những năm 1990. Tỷ lệ sinh ở Quận Wuxi giảm đều từ năm 1970. Cho tới đầu những năm 1990, tỷ lệ sinh thô là khoảng 10/1000. Từ năm 1987 đến 1996, tỷ lệ tăng tự nhiên trung bình ửo Tỉnh Wuxi là 0.69%/năm (xem Cục Thống kê Wuxi, 1997, trang 68.) 13. Năm 1996, khu vực Wuxi đã thông báo có 7157 doanh nghiệp công nghiệp sở hữu làng, 1872 doanh nghiệp công nghiệp hợp tác làng (nongcun hezuo gongye; ví dụ các doanh nghiệp được sở hữu bởi các nhóm nhỏ thuộc làng) và 9381 doanh nghiệp công nghiệp nông thôn sở hữu bởi các cá nhân (nongcun geti gongye) 14. 467 thành phố được chỉ định của Trung Quốc vào năm 1990 có diện tích xây dựng khoảng 13000 km2 (xem Y. Li, 2000, trang 596). Tuy nhiên diện tích bao quanh của những khu phát triển này vào năm 1997 là khoảng 2322 km2. 15. Trung Quốc có gần 3,7 triệu làng và 29854 khu phố buôn bán nông thôn vào cuối năm 1995 (xem Y.Li, 2000. trang 250). Các làng nông thôn bao gồm các “làng trung tâm” đôi khi còn gọi là “các làng hành chính” (xingsheng cun), nơi các hội đồng làng được xây dựng và các “làng tự nhiên” (ziran cun) nơi có thể đơn thuần chỉ là một nhóm các hộ nông dân tụ hợp lại với nhau. Nói chung, các làng ở phía Bắc lơn hơn và phân bố trên quy mô rộng hơn trong khi các làng ở phía Nam nhỏ hơn, nhiều hơn và có vị trí gần nhau hơn (xem Ho và Lin, 2004b, trang 85). Tài liệu tham khảo ASH, R.F. and EDMONDS, R.L. (1998) China’s land Resources, Environment and Agricultural Production, The China Quarterly, 156, PP.836-879 LIU, Y. (Ed.) (2000) Zhongguo tudi diaocha shujuji [a compilation of the results from the survey of China’s land resources]. Internal document of the National Land Survey Office, Beijing. BROWN, L. (1995) Who will feed China? Wake-up call for a small Planet, New York: Norton Lo.c.p. (2002) Urban Indicators of China from radian – calibrated digital DMSP-OLS night- time images, Annals of the Association of American Geographers, 92(2), pp. 225 - 240 CARTIER, C. (2001) ‘Zone fever’, the arable land debate, and real estate speculation: China’s evolving land use regime and its geographical contradictions, Journal of Contemporary China, 10(28), pp.445-469 LOGAN, J. (Ed.) (2002) The New Chinese City: Globalization and Market Reform. Oxford: Blackwell. CHAN, K.W. (1994) Urbanization and rural-urban migration in China since 1982, Modern China, 20(3), pp.242-281 MA, K.W. (2000) Zhongguo tudi diaocha jishu [ The Technology of Surveying China’s Land Resources]. Beijing: China Land Press. CHAN, K.W. and Hu, Y. (2003) Urbanization in China in the 1990s: new definition, defferent series, and revised trends, The China Review, 3(2), pp.49-71. MA, L.J.C. (2002) Urban transformation in China, 1949 – 2000: a review and research agenda, Environmental and Planning A, 33(9), pp. 1545-1569 China (1998) Land Management Law of the People’s Repuclic of China, originally adopted 25 June 1986, Revised 29 Dec.1988, and further revised and promulgated 29 August 1998, in: CHH Asia Pacific (Ed.) China Law for Foreign Business, Vol.3, pp.18354 – 18399. North Ryde, Australia: CCH Australia Ltd. MA, L.J.C. (2005) Urban administrative restructuring, changing scale relations and local economic development in China, Political Geography, 24(4), pp.477 – 497. CMLR (China Ministry of Land Bureau) (1985) Zhongguo Chengshi Tongji Nianjiang (1985) [China Urban Statistical Yearbook (1985], Beijing: New World Press. MA, L.J.C. and CUI, G.H. (1987) Administrative changes and urban population in China, Annals of the Association of Americam Geographers, 77(3), pp.373 - 395 CSSB (1996-2001) Zhongguo Chengshi Tongji Nianjiang [Statistical Yearbook of China], Beijing: China Statistical Press. MA, L.J.C. and CUI, G.H. (2002) Economic transition at the local level: diverse forms of town development in China, Eurasian Geography and Economics, 41(2), pp.79-103. CSSB (1999) Zhongguo Chengshi Tongji Nianjiang [New China’s Cities Years], Beijing: China Statistical Press. MA, L.J.C. and FAN, M. (1994) Urbanization from below: the growth of towns in Jiangsu, China, Urban Studies, 31(10), pp.1625 – 1645. CSSB (2000) Zhongguo Chengshi Tongji Nianjiang MA, L.J.C. and LIN, C,S. (1993) (2000) [China’s Urban Statistical Yearbook (2000)], Beijing: China Statistical Press. Development of town in China: a case study of Guangdong Province, Population and Development Review, 19(3), pp.583 - 606 DING, C. (2004) Urban spatial development in the land policy reform area: evidence from Beijing, Urban Studies, 41(10), pp.1889-1907 MA, L.J.C. and WU, F. (2005) Restructuring the Chinese City: diverse processes and reconstituted spaces, in L.J.C. MA and F.Wu (ed.) Restructuring the Chinise City, pp. 1-20. London: Routledge. DOU, Y.E.et al. (2000) Yaogan jishu zai gengdi ziyuan dongtai jiance zhong de yingyong yanjiu (a study of the application of remote sensing technology in monitoring the dynamic changes of cultivated land). Governmnent document, Shandong Province, Jinan PANNELL, C.W. (1990) China’s urban geography, Progress in Human Geography, 14(2), pp.214-236 EDITORIAL COMMITTEE (1995-97) Zhongguo tudinianjian (China Land Yearbook). Beijing: People’s Press PANNELL, C.W. (2002) China’s continuing urban transition, Environment and Plaaning A, 33(9), pp.1571-1589 FAN,C.C. (1999) The vertical and horizontal expansions of China’s City System, Urban Geography, 20(6), pp.494-515 Prọect Team (1998) Zhongguo xiao chengzhen fazhan yu yongdi guanli (Development and Land Úe Develoment ò small Tớn). Beijing: China Land Press FAN,C.C. (2002) The elite, the natives, and the outsiders: migration and labor market segmentation in urban China, annals of the Association of American Geographers, 92(1), pp. 103-124 SHEN, J., WONG, K. and FENG, Z. (2002) State-sponsored and spontaneous urbanization in the Pearl River Delta of South China, 1980 – 1998, Urban Geography, 23(7), pp.674 – 694. FAN,C.C. (2003) Rural-urban migrarion and gender division of labor in traditional China. International Journal of Urban and Regional Research, 27(1), pp.24-47 SMART, A. and LIN, G.C.S. (2007) Local capitalisms, local citizenship and translocality: rescaling from below in the Pearl River Delta region, China, International Journal of Urban and Regional Research, 31(2), pp. 280 – 302. FPIT (FARMLAND PROTECTION INVESTIGATION TEAM) (1997) woguo gengdi baohu mianlin de yanjun xingshi he zhengce xing jianyi (protection of our cultivated land faces grim circumstances and some policy recommendations), zhongguo tudi kexue (China Land Science), 11(1), pp.4-5 SMART, A. and TANG, W.S. (2005) Irregular trajectories: illegal building in mainland China and Hongkong, in: L.J.C. Ma and F.Wu (eds) Restructruring the Chinese City, pp.80-97. London: Routledge. Gaubat P. (1999) China’s urban transformation: pettens and processes of morphological change in Beijing, Shanghai and Guangzhou, Urban Studies, 36(9), pp.1495-1521. SMIL, V. (1999) China’s agricultural land, The China Quarterly, 158, pp. 414 – 429. GOLDSTAIN, S. (1990) Urbanization in China, 1982- 87: effects of migration and reclassification, Population and Development Review, 16(4), pp.673- 701 SOLINGER, D.J. (1999) Contesting Citizenship in Urban China. Berkeley, CA: University of California Press. GSB (GUANGZHOU STATISTICAL BUREAU) (2001) guangzhou Statistical Yearbook (2001), Beijing: China Statistical Press Sun, S.H. and Wang, Y. (2003) The institutional structure of a poverty market in inland China: Chongqing, Urban Studies, 40(1), pp.91-112 GUY, S. and HENNEBERRY, J. (2000) Understanding urban development processes: integrating the economic and the social in property research, Urban Studies, 37(13), pp.2399-2416. US Embassy Beijing (1997) China’s farmland loss rings alarm – satellite photographs reveal a serious problem (www.usembassy- china.org.cn/sandt/landloss.htm; accessed 20 June 2003). HAN, S.S. and WANG, Y. (2003) The institutional WANG, Y.P. and MURIE, A. (1999) structure of a poperty market in inland China: Chongqing, Urban Studies, 40(1), pp.91-112. Commercial housing development in urban China, Urban Studies, 36, pp.1475 - 1494 Harvey, ju. AND jowsey, e. (2004) Urban land economics, Basingstoke: Macmillan. WENG, Q. and WEI, Y.D. (2003) Land use and land cover changes in China under reform and globalization, Asian Geographer, 22(1/2), pp. 1-4 HEALEY, P. (1991) Models of the development process: a review, Journal of Property Research. 8, pp.219-238 WONG, K.K. AND ZHAO, X.B. (1999) The influence of bureaucratic behavior on land apportionment in China: the informal process, Environmental and Planning C, 17, pp.113 - 126 HEALEY, P. and BARRETT, S.M. (1990) Structure and agency an land and property development processes: some ideas for research, Urban Studies, 27(1), pp.89-104. World Bank (1993) China: Urban land management in an emerging market economy. The world bank, Washington, DC. HEFEI CITY GOVERNMENT (1999) Hefeishi tudi liyong zhongti guifa, 1997-2010 (Land use planning for Hefei City, 1997-2010). Internal document, Hefei. WU, F. (1996) Changes in the structure of public housing provision in urban China. Urban Studies, 33, pp.1601 - 1627 HEFEI STATISTIC BUREAU (1986) Wanzhong xincheng Hefei (Hefei: a new city in central Anhui), in: CHINA STATE STATISTIC BUREAU ZHONGGGUA CHENGSHI TONGJI NIANJIAN 1986 [China Statistical Yearbook 1986], Beijing: New World Press WU, F. (2000) The global and local dimensions of place-making: the remarking of Shanghai as a world city, Urban Studies, 37, pp.1359 - 1377 HELLIG, G.K. (1994) Neglected dimensions of global land-use change: reflection and data Population and Deevelopment Review, 20(4), pp.831-859 WU, F. (2003) the (post-) socialist entrepreneurial city as a state project: Shanghai’s reglobalization in question, Urban Studies 40(9), pp. 1673-1698 HELLIG, G.K. (1997) Anthropogenic factors in land- use change in China Population and Deevelopment Review 23(1), pp.139-168 WU, F. and YEH, A.G.O. (1999) Urban spatial structure in an transitional economy: the case of Guangzhou, Journal of the American Planning Association, 65(4), pp. 377-394 HO,S.P.S (1994) Rural China in Transition, Oxford: Clarendon. WU, W. (2004) Cultural Strategies in Shanghai: regenerating cosmopolitanism in an era of globalization, Progress in Planning, 61(3), pp.159-180 HO,S.P.S. and Lin, G.C.S. (2003) Emerging land markets in rural and urban China: Policies and practices. The China Quarterly, 175, pp.681-707 WUXI STATISTICAL BUREAU (1988-97) Wuxi tongji niamjian [Statistical Yearbook of Wuxi]. Beijing: China Statistical Press HO,S.P.S. and Lin, G.C.S. (2004a) Converting land to nonagricultural use in China’s coastal provinces: evidence from Jiangsu, Modern China, 30(1), pp.81- 112 XIE, Q., PARSA, A.R.G. and READING, B. (2002) The emergence of the urban land market in China: evolution, structure, constraints and perspectives, Urban Studies, 39(8), pp.1375-1398. HO,S.P.S. and Lin, G.C.S. (2004b) nonagricultural land use in post-reform China. The China Quarterly, 179, pp.758-781 XIE, Y. AND FAN, Z. (2003) Examine urban expansion from remote sensing and GIS: a case study in Beijing. Asian Geographer, 22(2/1), pp.109-122. Hsing, Y. Brokering power and property in China’s townships, the Pacific Review, 19(1), pp103-124 XU, J and YEH, A.G.O. (2005) City repositioning and competitiveness building in regional development: new development strategies in Guangzhou, China, International Journal of Urban and Regional Research, 29(2), pp.283 - 308 HSU,M.L. (1994) The expansion of the Chinese urban system, 1953-1990, Urban Geography, 15(6), pp.514- YEH, A.G.O. (2005)Dual land market and internal spatial structure of Chinese cities, in: 536 L.J.C. Ma and F.Wu (eds) Restructuring the Chinese City, pp. 59 – 79. London: Routledge. INGRAM, G.K. (1998) Patterns of metropolitan development: what have we learned? Urban Studies, 35, pp 1019-1035 YEH, A.G.O. and LI, X. (1997) An integrated remote sensing and GIS approach in the monitoring and evaluation of rapid urban growth for sustainable development in the Pearl River Delta, China. International Planning Studies, 2(2), pp. 193 – 210. LI, H. (1998) Woguo kaifaqu buju ji tudi liyong xianzhuan fensi yu yuanjiu [a study of the location and land use pattern of development zones in our country], Zhongnuo tudi kexue [China Land Science], 12(3), pp. 9-12 YEH, A.G.O. and WU.F. (1996) The new land development process and urban development in Chinese cities, International Journal of Urban and Regional Research, 20(2), pp. 330 - 353 LI, P., LU, C., YUAN, Q. ET AL (2002) Guangzhou chengshi zhongli jazhang gainian guifa yuanjiu [Studies of Strategic Planning for Guangzhou City]. Beijing: China Architecture Industry Press. YUSUF, S. and WU, W. (2002) Pathways to a world city: Shanghai rising in an era of globalization, Urban Studies, 39(7), pp.1213- 1240 LI, W (1997) Guanggou tudi zhidu de zuotian jintian, he mingtian [China’s Land System: Yesterday, today and tomorrow]. Yanji: Yanbian University Press. ZHANG, L. and ZHAO, S. X.b. (1998) Reexamining China’s urban’s concept and the level of urbanization, The China Quarterly, 154, pp. 330 – 381. LY, Y. (Ed.) (2000) Guanggou tudi ziyuan [Land Resources of China]. Beijing: Zhongguo dadi chubanshe (China Land Press). ZHOU, Y and MA, L.J.C. (2000) Economic restructuring and suburbanization in China, Urban Geography, 21(3), pp.205 – 236. LIN, G.C.S. (1997) Red Capitalism in South China: Growth and Development of the Pearl River Delta. Vancouver: University of British Columbia Press. ZHOU, Y and MA, L.J.C. (2003) China’s urbanization levels: reconstructuring a baseline from the Fifth Population Census, The China Quarterly, 173, pp.176 - 196 LIN, G.C.S. (1998) China’s industrialization with controlled urbanization: anti-urbanism or urbanbiased? Issues & Studies, 34(6), pp.98-116 ZHU, J. (2002) Urban development under ambiguous property rights, International Journal of Urban and Regional Research, 26(1), pp.41-57 LIN, G.C.S. (2001) Metropolitan development in a transitional socialist economy: spatial restructuring in the Pearl River Delta, China, Urban Studies, 38(3), pp.383-406 ZHU, J. (2004) From lan use right to land development right: Institutional change in China’s urban development. Urban Studies, 41(7), pp. 1249-1267 LIN, G.C.S. (2002) The Growth and structural change of Chinese Cities: a contextual and geographic analysis, Cities, 19(5), pp.299-316 ZHU, J. (2005) A transitional sintitution for the emerging land market in urban China, Urban Studies, 42(8), pp.1369-1390. LIN, G.C.S. (2004) Toward a post-socialist city? Economic tertiarization in the Guangzhou metropolis, China, Eurasian Geography and economics, 45(1), pp. 18-44 LIN, G.C.S. (2006 ) Peri-urbanization in globalizing China: a study of new urbanism in Dongguan, Eurasian Geography and Economics, 47(1), pp. 28-53 LIN, G.C.S. (2007 ) Chinese urbanization in question: state, society, and the reproduction of urban spaces, Urban Geography, 28(1), pp. 7-29 LIN, G.C.S. and HO, S.P.S. (2003) China’s land resources and land use change: insights from the 1996 land survey, Land Use policy, 20(3), pp.87-107 LIN, G.C.S. and HO, S.P.S. (2005) The state, land and system, and land development processes in contemporary China. Annals of the Association of Aerican Geographers, 95(2), pp.411-436 Phụ lục Phụ lục này miêu tả cách thức đưa ra số liệu về sử dụng đất cho ba nghiên cứu điển hình (Quảng Châu, Hefei và Wuxi). Số liệu được đưa ra trong Bảng 6 (Quảng Châu shiqu) và 7 (Hefei shiqu) là những kết quả xử lý máy tính của các hình ảnh vệ tinh. Chúng tôi đã mua các hình ảnh thô từ Bản đồ vệ tinh chuyên dụng (Landsat Thematic Mapper) và Bản đồ Plus chuyên dụng nâng cao (Enhanced Thematic Mapper Plus) (ETM+) dưới dạng số với cả 7 dải hình ảnh (spectrum band). Ngoại trừ dải 6 (dải hồng ngoại nhiệt), phân giải không gian danh nghĩa (nominal spatial resolution) của số liệu này là 30 mét. Phần mềm ERDAS Imagine được sử dụng nhằm sử lý số liệu hình ảnh. Một hình ảnh ghép sai màu được tạo ra thông qua việc sử dụng các dải 5, 4 và 3 nhằm kiểm tra thị giác trong monitor của máy tính. Chỉnh sửa hình ảnh sau đó được thự hiện thông qua việc sử dụng các bản đồ địa hình số tỷ lệ 1/100000 để điều chỉnh. Đối với mỗi cảnh, hơn 8 điểm điều chỉnh được sử dụng trong điều chỉnh địa lý do đó hình ảnh có được hệ thống ngang bằng giống như trong những bản đồ địa hình quy mô 1/100000. Ban đầu chúng tôi sử dụ-g phương pháp tiếp cận kiểm chứng xác suất tối đa (the supervised approach of maximum likelihood classification) để có được thông tin về sử dụng đất từ những hình ảnh. Tuy nhiên, do đô chính xác thấp (chỉ khoảng 60 – 70%) của các kết quả, chúng tôi quyết định bổ sung phân loại hình ảnh tự động với giải nghĩa bằng thị giác (hay thủ công) nhằm thu về thông tin sử dụng đất phi nông nghiệp từ các hình ảnh vệ tinh. Diễn giải băng thị giác hay thủ công liên quan tới một chuyên gia có thể đưa ra đánh giá không chỉ dựa trên những đặc tính hình ảnh của các dạng bao phủ trên mặt đất, mà còn đối với đia điểm của đất trong mối quan hệ với địa hình, dạng đất, những chỉ số về kết cấu và nhân tạo. Do đó, tính chính xác là cao hơn rất nhiều so với phân loại hình ảnh tự động. Những chuyên gia tính toán từ xa (remote sensing) có kinh nghiệm tại Viện Địa lý Nam Kinh và Đại học Nam Kinh đã thực hiện việc diễn giải hình ảnh. Để thống nhất và có khả năng so sánh, 2000 biên giới hành chính của Quảng Châu shiqu và Hefei shiqu đã được đặt lên các hình ảnh vệ tinh tương ứng của nó. Sử dụng đất đã được chia làm 7 nhóm(đất nông nghiệp, đất xây dựng đô thị, khu phát triển và công nghiệp độc lập, định cư nông thôn, đất phi nông nghiệp khác, hồ cá, và các diện tích mặt nước khác). Phần mềm Arc/View đã được sử dụng để thực hiện việc kiến giải bằng thị giác. Sử dụng việc số hóa trên màn ảnh (on- screen digitalizing), những biên giới của các loại hình sử dụng đất khác nhau được tìm ra và sau đó đánh mã theo các nhóm sử dụng đất được áp dụng. Sau khi hoàn thành việc diễn giải hình ảnh, việc xác nhận lại trên cơ sở thực địa được thực hiện trên thực địa trên một cơ sở có lựa chọn. Đối với các dạng bao phủ đất được thấy trong các khu vực địa phương (localized area) tương đối khó phân loại, việc kiểm tra thực tế được thực hiện và sự chỉnh sửa đối với diễn giải hình ảnh được thực hiện theo đó. Phần mềm ARC/INFOR sau đó được sử dụng để biên tập và chỉnh sửa các hình đa giác bao quanh đất được số hóa và xây dựng địa hình cho các hình đa giác đó. Cuối cùng các thống kê vùng được rút ra đối vơi smỗi nhóm sử dụng đất. Số liệu được đưa ra trong bảng 8 (khu vực Wuxi) được lấy từ diễn giải hình ảnh đối với các bản in hình ảnh được sửa cho thẳng (ortho-rectifyd) của các hình ảnh vệ tinh TM dưới dạng hình ảnh ghép sai màu (false color composite) được mở rộng lên quy mô 1/100000. Các chuyên gia ở Viện Địa lý Nam Kinh quen thuộc với ku vực Wuxi đã kiến giải thông tin sử dụng đất từ những bản in hình ảnh này. Đặc biệt, biên giới hành chính của khu vực Wuxi được đặt lên cả các bản in năm 1996 và 1987. Thông qua việc diễn giải bằng hình ảnh các hình dạng, kích cơ, màu, bong, kết cấu và địa điểm, sử dụng đất trong khu vực đã được phan loại thành 8 nhóm (đất canh tác, đất nông nghiệp khác, diện tích xây dựng đô thị, các khu phát triển và công nghiệp độc lập, đinh cư nông thôn, đất giao thông, đất phi nông nghiệp khác và diện tích mặt nước). Do có rất ít đất không sử dụng ở khu vực Wuxi, đất nông nghiệp được dự đoán như phần còn lại. Với đất không rõ mục đích sử dụng, việc phân loại được thực hiện theo nghiên cứu tài liệu hoặc xác nhận trên cơ sở thực tế. Những kết quả diễn giải hình ảnh được quét vào một máy tính và số hóa vào các tầng khác nhau theo các dạng sử dụng đất. Diện tích của mỗi loại sử dụng đất sau đó được tính toán. Đối với các đặc điểm đường thẳng với nhưng độ rộng không phù hợp với máy tính (như các đường cao tốc và đường nông thôn), diện tích được tính dựa trên những mẫu về độ rộng được lấy từ thực địa. Quá trình xử lý và diễn giải các hình ảnh vệ tinh (hay các bản in hinh ảnh của những hình ản đó) có thể có lỗi. Do đó phân giải không gian của các hình ảnh vệ tinh là 30 mét, định cư nông thôn nhỏ rải rác ở nông thôn hay dọc theo các con sông dưới dạng đường thẳng không phải lúc nào cũng được chỉ ra trong quá trình xử lý. Các lỗi máy và con người cũng có thể xuất hiện trong quá trình giải thích hình ảnh do một loại sử dụng đất hay bao quanh đất có thể có các đặc tính hình ảnh khác nhau. Ví dụ, một nông trại có độ ẩm khác nhau và mùa màng vào những mùa khác nhau có thể có độ sáng khác nhau. Mặt khác, những loại hình sử dụng đất hoặc bao phủ đất khác nhau có thể có các đặc điểm hình ảnh như nhau. Ví dụ, các hố đá, thương được thấy ở các khu vực ngoai thành, có phản ứng hình ảnh rất giống với bê tông. Một vấn đề khác là hầu hết đất được sử dụng cho mục đích công nghiệp ở các khu ngoại thành được trộn lẫn với các khu định cư nông thôn hoặc được đặt bên rề những con phố và làng, và do đó rất khó có thể phác họa. Các khu phát triển (khaifaqu) thương có rất nhiều đặc điểm hình ảnh gây nhầm lẫn, do rất nhiều vùng như vậy, với đất không sử dụng cũng như một số khu đất nông trại. Kiểm tra trên cơ sở thực địa có lựa chọn và kiểm tra chéo với các tài liệu hiện có và các bản đồ sử dụng đất địa phương đã làm giảm, nhưng không loại trừ hoàn toàn những lỗi trên. Đối với những trường hợp Quảng Châu shiqu và Hefei shiqu, một mẫu điều tra nhỏ đã được thực hiện nhằm kiểm tra độ chính xác và những kết quả chỉ ra tính chính xác của diễn giải và xử lý hình ảnh là khoảng 80-90%. Mặc dù những vấn đề này, chúng tôi tin rằng các bản đô sử dụng đất là hữu dụng do các hình ảnh vệ tinh (hoặc các bản in ảnh) được xử lý và diễn giải một cách thống nhất và do mục đích của nghiên cứu không phải là tính toán diện tích tuyệt đối của mỗi loại sử dụng đất, mà chỉ là phác họa xu hướng thay đổi sử dụng đất.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf212145617_2_xay_dung_khong_gian_do_thi_hoa_o_trung_quoc_chuyen_dang_tren_co_so_do_thi_moi_va_lay_dat.pdf